1. Đặc điểm nhận dạng:
Cây gỗ nhỡ, thường xanh, cao 15 – 20 m hay hơn, có đường kính thân đến 0,4 – 0,6 hay hơn. Vỏ màu xám nâu, nứt dọc. Cành con hình trụ hay hình 4 góc, chia nhánh trên cùng một mặt phẳng. Tán hình tháp rộng. Lá hình vảy, xếp 4 dãy xít nhau trên cành. Nón đơn tính, cùng gốc; nón đực hình thuôn, dài 5 – 6 mm, nón cái hình cầu, khi già có đường kính 1,5 – 2 cm, mang 6 – 8 (-14) vảy, hình khiên. Mỗi vảy mang 6 – 8 hạt, gân hình cầu và hơi dẹt với một cánh ở bên.
Nón xuất hiện tháng 2 – 3, hạt chín tháng 5 – 6
Cây sinh trưởng chậm. Khả năng tái sinh bằng hạt rất kém, dưới tán cây mẹ rất ít khi gặp cây con.
Hạt cây Hoàng Đan (Nguồn ảnh: Sưu tầm)
2. Sinh cảnh:
Cây mọc rải rác, đôi khi thành đám nhỏ trong rừng rậm nhiệt đới thường xanh mưa mùa ẩm, trên núi đá vôi, ở độ cao 300 - 700 m, có khi đến 1000 m, mọc hỗn giao với các loài Trai (Garcinia Sagraeoides), Nghiến (Burretiodendron Tonkinense), Trám (Canrium sp), Thích (Acer sp.)…
3. Phân bố:
Lao Chải, Bản Hồ…
4. Giá trị:
Gỗ tốt và mịn, không mối mọt, có mùi thơm dịu. Dùng trong xây dựng làm đồ dùng cao cấp, đồ dùng văn phòng và nhất là đồ mỹ nghệ. Phần thân và nhất là rễ chứa nhiều tinh dầu, dùng chữa sưng tấy, bong gân, bôi vết thương có tác dụng sát trùng hay dùng trong công nghệ sản xuất xà phòng thơm và nước hoa. Rễ còn được dùng phổ biến để làm hương cao cấp.
5. Tình trạng và biện pháp bảo vệ:
Đang nguy cấp (E).
Loài đã bị khai thác rất ráo riết để lấy gỗ thân và rễ, chủ yếu để làm bột hương. Số lượng cá thể còn lại rất ít. Cây lại tái sinh rất khó khăn.