Cây Pơ mu (Nguồn ảnh: Sưu tầm)
1. Đặc điểm nhận biết:
Cây gỗ to, có tán hình tháp, thường xanh, cao 25 -30 m hay hơn, đường kính thân tới hơn 1m. Thân thẳng, không có bạnh gốc. Vỏ thân màu xám nâu, bong thành mảng khi non, sau nứt dọc, mùi thơm. Lá hình vảy, xếp thành 4 dãy. Ở cành non hoặc cành dinh dưỡng, lá lưng bụng ngắn và hẹp hơn hai lá bên, dài đến 7mm, rộng đến 4mm, có đầu nhọn dựng đứng; ở cành già hay cành mang nón, lá hình vảy nhỏ hơn (dưới 1mm), có mũi nhọn cong vào trong. Nón đơn tính cùng gốc; nón đực hình trứng hay hình bầu dục, dài 1cm, mọc ở nách lá; nón cái gần hình cầu, đường kính 1,6 - 2,2 cm, mọc ở đỉnh một cành ngắn, khi chín tách thành 5 - 8 đôi vảy màu nâu đỏ, hoá gỗ, hình khiên, đỉnh hình tam giác, lõm giữa và có mũi nhọn. Mỗi vảy hữu thụ mang 2 hạt có 2 cánh không bằng nhau.
Cây tái sinh ít bằng hạt trong bóng râm có lớp đất mặt sâu, ẩm, không có khả năng tái sinh bằng chồi.
Lá và hạt cây pơ mu (Nguồn ảnh: Sưu tầm)
2. Sinh cảnh:
Cây mọc ở độ cao 900 – 2500 m, tập trung nhiều ở 950 – 1500 m, trong rừng rậm nhiệt đới thường xanh mưa mùa ẩm, trên sườn núi, thường hỗn giao với một số loài cây lá rộng, lá kim khác như Sồi cau (Lithocarpus fenestrata), Hồi núi (Illicium griffithii), Đỗ quyên (Rhododendron simsii), Kim giao (Nageia fleuryi), Thông nàng (Podocarpus imbricatus), …, trên đất mùn màu vàng xám, phong hoá từ đá Granít có tầng dày thay đổi, thành phần cơ giới nhẹ. Trên các dông núi thường gặp các dải rừng hẹp thuần loại Pơ mu.
3. Phân bố:
Tả Van, Lao Chải, San Sả Hồ...
4. Giá trị:
Gỗ tốt, có thớ mịn, thơm và không bị mối mọt. Trước kia gỗ Pơ mu thường được dùng đóng quan tài. Người Dao và Mông thường xẻ ván lợp nhà, làm vách. Than Pơ mu cho nhiệt lượng cao. Gỗ, rễ cây dùng chưng cất tinh dầu để làm hương liệu và làm thuốc.
Bộ bàn ăn được làm từ gỗ pơ mu (Nguồn ảnh: Sưu tầm)
5. Tình trạng và biện pháp bảo vệ:
Biết không chính xác (K).
Do gỗ quý và rễ có tinh dầu giá trị cao nên cây bị khai thác mạnh. Hiện nay chỉ còn gặp rải rác ở nơi xa dân hoặc trên đỉnh và đường đỉnh núi hiểm trở. Tái sinh kém, sinh trưởng chậm nên số lượng giảm nhanh chóng.